Phẫu thuật phụ khoa là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật phụ khoa
Phẫu thuật phụ khoa là một loại phẫu thuật được thực hiện trên cơ quan sinh dục nữ, bao gồm tử cung, buồng trứng, âm đạo và bàng quang. Mục đích của phẫu thuật ...
Phẫu thuật phụ khoa là một loại phẫu thuật được thực hiện trên cơ quan sinh dục nữ, bao gồm tử cung, buồng trứng, âm đạo và bàng quang. Mục đích của phẫu thuật phụ khoa có thể gồm: điều trị các vấn đề sức khỏe phụ khoa như u xơ tử cung, polyp, buồng trứng vành, viêm nhiễm; phẫu thuật sinh lý tạo hình để cải thiện vẻ ngoài và chức năng của các cơ quan phụ khoa như thu nhỏ âm đạo, phục hồi thắt đặt âm đạo sau sinh, hạ xuống cơ tử cung mắc phải; điều chỉnh và sửa chữa các vấn đề về tử cung và Âm đạo để duy trì hoạt động nền tảng và nhiệm vụ sinh sản của phụ nữ.
Dưới đây là một số thủ tục phẫu thuật phụ khoa phổ biến:
1. Hysterectomy (cạo tử cung): Là quá trình loại bỏ hoặc giảm đi một phần hoặc toàn bộ tử cung. Quá trình này có thể là do nhiều lý do như ung thư tử cung, u xơ tử cung, các vấn đề về kinh nguyệt, hoặc để kiểm soát thai nhi.
2. Oophorectomy (cạo buồng trứng): Quá trình này bao gồm loại bỏ hoặc giảm một hoặc cả hai buồng trứng. Thường được thực hiện trong trường hợp ung thư buồng trứng, chẩn đoán các vấn đề về buồng trứng hoặc để kiểm soát hormone nội tiết.
3. Colposcopy (siêu âm tử cung và âm đạo): Quá trình này sử dụng một thiết bị gọi là colposcope để kiểm tra tử cung, âm đạo và vùng chế độ qụa (cervix) để tìm hiểu về các vấn đề như viêm nhiễm, ung thư tử cung, polyp, và một số bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
4. Laparoscopy (nội soi): Là một quá trình phẫu thuật nhẹ thông qua việc sử dụng các ống nội soi để nhìn và điều trị các bệnh phụ khoa như u xơ tử cung, buồng trứng vành, viêm nhiễm và cắt bỏ phần tử cung bị mắc kẹt.
5. Vaginoplasty (phẫu thuật thu nhỏ âm đạo): Quá trình này được thực hiện để thu nhỏ lại âm đạo trong trường hợp nó bị giãn ra do sinh, lão hóa hoặc do phần tử cung bị lệch. Đây là quá trình tạo hình sinh lý nhằm cải thiện đời sống tình dục và tăng cường tự tin bản thân.
6. Prolapse repair (sửa chữa tụt âm đạo): Quá trình này nhằm khắc phục sự tụt âm đạo trong các trường hợp cơ tử cung hoặc âm đạo yếu đi, gây ra khó chịu hoặc vấn đề tiểu tiện.
Những giải pháp phẫu thuật phụ khoa được lựa chọn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và triệu chứng của bệnh nhân. Cần tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa phụ khoa để được tư vấn và chẩn đoán chính xác trước khi quyết định phẫu thuật.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật phụ khoa":
Mục tiêu: Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, sự kết hợp cisplatin và paclitaxel đã vượt trội hơn so với cisplatin và cyclophosphamide trong điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn tiến triển. Mặc dù trong các thử nghiệm không ngẫu nhiên, carboplatin và paclitaxel là một chế độ kết hợp ít độc hơn và hoạt động cao, nhưng vẫn còn lo ngại về hiệu quả của nó ở những bệnh nhân có khối lượng nhỏ và được phẫu thuật giai đoạn III. Do đó, chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm không thấp hơn so sánh cisplatin và paclitaxel với carboplatin và paclitaxel trong dân số này.
Bệnh nhân và Phương pháp: Các bệnh nhân bị ung thư buồng trứng tiến triển và không còn khối u nào lớn hơn 1,0 cm sau phẫu thuật được phân bổ ngẫu nhiên để nhận cisplatin 75 mg/m2 cộng với truyền paclitaxel 135 mg/m2 trong vòng 24 giờ (nhánh I), hoặc carboplatin với diện tích dưới đường cong 7,5 tiêm tĩnh mạch cùng với paclitaxel 175 mg/m2 trong 3 giờ (nhánh II).
Kết quả: Bảy trăm chín mươi hai bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vào nghiên cứu. Các yếu tố tiên lượng tương tự trong hai nhóm điều trị. Độc tính tiêu hóa, thận và trao đổi chất, cũng như bạch cầu giảm độ 4, thường xuyên hơn đáng kể ở nhánh I. Giảm tiểu cầu độ 2 hoặc lớn hơn phổ biến hơn ở nhánh II. Độc tính thần kinh tương tự trong cả hai chế độ. Thời gian sống không tiến triển trung bình và thời gian sống tổng thể lần lượt là 19,4 và 48,7 tháng cho nhánh I so với 20,7 và 57,4 tháng cho nhánh II. Nguy cơ tương đối (RR) của tiến triển cho nhóm carboplatin cộng paclitaxel là 0,88 (95% khoảng tin cậy [CI], 0,75 đến 1,03) và RR của tử vong là 0,84 (95% CI, 0,70 đến 1,02).
Kết luận: Ở bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến triển, một chế độ hóa trị gồm carboplatin cộng paclitaxel ít gây độc tính hơn, dễ dàng sử dụng hơn và không kém phần hiệu quả khi so sánh với cisplatin cộng paclitaxel.
Dính nội tạng là các dải mô sẹo xơ, thường là kết quả của phẫu thuật, hình thành giữa các cơ quan và mô nội tạng, làm cho chúng kết nối với nhau một cách bất thường. Dính sau phẫu thuật xảy ra thường xuyên sau phẫu thuật ổ bụng và đi kèm với gánh nặng kinh tế lớn. Nghiên cứu này xem xét gánh nặng bệnh nhân nội trú của phẫu thuật cắt dính tại Hoa Kỳ (tức là số lượng và tỷ lệ sự kiện, chi phí, thời gian nằm viện [LOS]).
Dữ liệu xuất viện của bệnh nhân với phẫu thuật cắt dính chính và thứ phát đã được phân tích sử dụng Dự án Chi phí và Sử dụng Dịch vụ Y tế Quốc gia (Healthcare Cost and Utilization Project) năm 2005. Các quy trình được tổng hợp theo hệ thống cơ thể.
Chúng tôi xác định được 351.777 ca nhập viện liên quan đến phẫu thuật cắt dính: 23,2% cho phẫu thuật cắt dính chính và 76,8% cho phẫu thuật cắt dính thứ phát. Thời gian nằm viện trung bình là 7,8 ngày cho phẫu thuật cắt dính chính. Chúng tôi nhận thấy rằng 967.332 ngày chăm sóc được phân bổ cho các quy trình liên quan đến phẫu thuật cắt dính, với tổng chi phí nội trú lên tới 2,3 tỷ USD (1,4 tỷ USD cho phẫu thuật cắt dính chính; 926 triệu USD cho phẫu thuật cắt dính thứ phát). Số lần nhập viện vì phẫu thuật cắt dính tăng đều theo độ tuổi và cao hơn ở phụ nữ. Trong số các quy trình cắt dính thứ phát, 46,3% liên quan đến hệ sinh sản nữ, dẫn đến 57.005 ngày chăm sóc bổ sung và 220 triệu USD chi phí phát sinh.
Phẫu thuật cắt dính vẫn là một vấn đề phẫu thuật quan trọng tại Hoa Kỳ. Nhập viện vì tình trạng này dẫn đến chi phí phẫu thuật trực tiếp cao, điều này nên được các nhà cung cấp và người thanh toán quan tâm.
Các nghiên cứu về sự phát triển xương xốp của con người đã được thực hiện trên 19 bệnh nhân đã đồng ý thực hiện phẫu thuật thay khớp gối toàn bộ hai bên. Các xi lanh phủ titan xốp đã được cấy ghép vào mỏm xương đùi trong của đầu gối đối diện trong lần phẫu thuật TKA đầu tiên trong hai lần. Việc thu hồi vật liệu được thực hiện vào thời điểm phẫu thuật TKA thứ hai (sau 6-131 tuần), và phân tích fluorochrome đã được tiến hành. Tỷ lệ lắng đọng khoáng trung bình (MAR) tại giao diện đo được là 1,0 μm/ngày, trong khi đó, cách 4 mm, xương ngoại vi có tỷ lệ MAR trung bình là 0,8 μm/ngày. Điều này thể hiện một sự tăng tốc 25% trong tỷ lệ tái cấu trúc xương tại giao diện so với ngoại vi (
Mục tiêu của chúng tôi là xác định ảnh hưởng của ondansetron và dexamethasone trong việc ngăn ngừa buồn nôn và nôn sau phẫu thuật (PONV). Sáu mươi phụ nữ trải qua phẫu thuật phụ khoa nội soi đã được phân ngẫu nhiên nhận ondansetron 4 mg, dexamethasone 8 mg hoặc dung dịch muối. Các loại thuốc được sử dụng 2 phút trước khi gây mê, và các chế độ gây mê và giảm đau sau phẫu thuật được tiêu chuẩn hóa. Tỷ lệ PONV trong 24 giờ sau phẫu thuật là 35% ở nhóm ondansetron, 55% ở nhóm dexamethasone và 85% ở nhóm đối chứng. Một sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm chỉ được quan sát thấy trong 3 giờ đầu sau phẫu thuật. Trong thời gian này, ondansetron có hiệu quả cao hơn đáng kể so với dexamethasone và dung dịch muối, nhưng không có sự khác biệt nào được thấy giữa dexamethasone và dung dịch muối. Trong tất cả các nhóm điều trị, điểm số thang điểm trực quan về cảm giác đau (VAS), điểm số an thần và mức độ sử dụng thuốc giảm đau là tương tự nhau. Kết luận rằng ondansetron, nhưng không phải dexamethasone, đã ngăn ngừa PONV trong 3 giờ đầu sau phẫu thuật nội soi phụ khoa.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5